Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã mở ra cơ hội cho những nhà sáng chế như ông Trịnh Đình Năng, người không bằng cấp, học vị nhưng sở hữu 5 sáng chế công nghệ lõi có giá trị cao.

Nghị quyết 57 hướng tới giải phóng tư duy, tháo gỡ rào cản, nhìn nhận năng lực sáng tạo dựa trên kết quả chứ không chỉ dựa vào hình thức bằng cấp hay cơ cấu tổ chức. Đó là tư duy sáng tạo về quản lý nhà nước đối với khoa học công nghệ, tạo môi trường chính sách cởi mở, để những người đam mê khoa học, tự nghiên cứu vẫn có thể đóng góp tích cực, nếu họ được tạo điều kiện thử nghiệm, kết nối và chuyển giao”, ông Năng bày tỏ.

Có thể hiểu vì sao ông có niềm vui ấy, bởi lẽ, nhiều năm nay ông cô đơn trên con đường tự nghiên cứu khoa học. Ông trăn trở khi đất nước bỏ ra khá nhiều nguồn lực cho nghiên cứu, nhưng trong số đó có không ít những công trình khoa học “đút ngăn kéo” vì chưa thể áp dụng vào thực tiễn.

Làm việc gì tôi cũng nghĩ tới áp dụng khoa học, công nghệ

Tại một hội nghị khoa học được tổ chức vào năm 2019, có một người đàn ông tóc đã điểm bạc bỗng rơi nước mắt. Không ai hiểu ông khóc vì điều gì, cho đến khi ông cất lời phát biểu rất thẳng thắn: “Đất nước đầu tư quá nhiều tiền của cho khoa học, nhưng những sáng chế lại không thể bước ra khỏi phòng thí nghiệm, không thể trở thành hiện thực”.

Người đàn ông ấy là Trịnh Đình Năng – nhà sáng chế học hết lớp 7, không bằng cấp, không viện nghiên cứu, không phòng thí nghiệm hiện đại, nhưng sở hữu 5 bằng sáng chế có tính ứng dụng cao. Ông từng được nhiều doanh nghiệp nước ngoài mời gọi hợp tác với mức hỗ trợ rất lớn, nhưng vẫn chọn giữ công nghệ cho Việt Nam.

Và phía sau những giọt nước mắt đó là một hành trình chưa từng ngừng nghỉ, hành trình của một trí tuệ say mê tìm tòi và sáng tạo.

Nhà sáng chế Trịnh Đình Năng

Nhà sáng chế Trịnh Đình Năng

Tôi học hết lớp 7, phần còn lại tôi tự học hết”, ông Năng nói nhẹ tênh như thể đó là chuyện đơn giản như việc tự học đi xe đạp.

Nhưng đằng sau câu nói ấy là cả một hành trình gian khó. Kinh tế gia đình bấp bênh, ông phải nghỉ học từ sớm để theo bố mẹ lên công tác ở tỉnh miền núi Bắc Kạn. Trong hoàn cảnh không trường lớp nhưng ông không buông tay khỏi việc học.

Ông đọc sách một cách hăng say, tự nghiên cứu, rồi lặn lội trao đổi hàng giờ với các thầy dạy hóa học và vật lý ở Thái Nguyên, Bắc Kạn. Kiến thức, với ông, không đến từ bục giảng mà từ lao động, thử nghiệm và thực tiễn.

Là công nhân ở nhà máy Gang thép Thái Nguyên, sau này về xí nghiệp gỗ Bắc Kạn, ông luôn mang trong mình một bản năng đặc biệt: “Làm việc gì cũng nghĩ tới ứng dụng khoa học để tăng hiệu quả”.

Tại nhà máy Gang thép Thái Nguyên, ông có sáng chế đầu tiên được ghi nhận, được thưởng số tiền lớn. Đó là phần thưởng mà theo ông “quý hơn cả bằng khen”.

Một đêm đông cuối năm 1996, khi đang xem chương trình trao giải Nobel trên tivi, ông nhìn thấy công trình về Fullerene – một dạng thù hình của carbon với cấu trúc hình cầu rỗng. “Tôi xem và thấy nó có giá trị rất lớn với loài người và nó đã trở thành đích đến cho nghiên cứu tiếp theo của tôi. Kết quả là tôi đã dành hơn 20 năm để theo đuổi nó”, ông kể lại.

Hơn 4.000 lần làm thí nghiệm nghiên cứu thất bại nhưng ông không dừng lại. Mãi đến tháng 5/2015, ông mới thành công và đăng ký sáng chế. Sau hàng nghìn ngày cặm cụi nghiên cứu, hệ thống sản xuất hỗn hợp C60-C70 Fullerene của ông được Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp bằng độc quyền sáng chế vào năm 2018. Đó là cánh cửa mở ra khả năng phát triển một ngành công nghiệp hoàn toàn mới tại Việt Nam.

Trong một hội thảo khoa học quốc tế, một chuyên gia nước ngoài chia sẻ với ông về tiềm năng dược liệu của Việt Nam. Câu chuyện đó như một mồi lửa bén vào đống tro âm ỉ. Ông bắt tay vào nghiên cứu.

Tôi được tạo điều kiện vào thư viện của Bộ Khoa học và Công nghệ đọc tài liệu. Tôi đọc, chế tạo máy, lắp ráp, thử nghiệm. Nhưng khi áp dụng đúng công nghệ để chiết xuất curcumin, tôi tính toán thì… lỗ. Thất bại!”, ông Năng chia sẻ.

Không bỏ cuộc, ông đọc lại, nghiên cứu lại, rồi tự thiết kế công nghệ riêng. “Tôi gần như ăn ngủ tại nơi làm việc”, ông kể. Nguyên liệu đầu tiên được chọn là nghệ nếp Bắc Kạn, loại nông sản từng có giá chỉ vài nghìn đồng mỗi kilogam. Trong khi đó, tinh chất curcumin đạt chuẩn quốc tế lại có giá tới hàng nghìn USD/kg.

Sau 5 tháng bền bỉ, ông cho ra đời dây chuyền chiết tách nano curcumin đạt hiệu suất 95% – một con số cực kỳ ấn tượng so với công nghệ chiết tách thông thường.

Đây là nghiên cứu nhanh nhất tôi từng làm”, ông nói. Thành công ấy giúp ông tìm ra một dây chuyền mới cho công nghệ tách chiết dược liệu, mở đường cho hàng loạt ứng dụng đối với các loại thảo dược khác như dây thìa canh, trinh nữ hoàng cung, cà gai leo, gấc… Tất cả đều sử dụng công nghệ chiết xuất chân không, giúp giữ nguyên hoạt chất sinh học, nâng cao hàm lượng tinh dược và độ tinh khiết của sản phẩm.

Nghiên cứu này đã mở ra một con đường mới về công nghệ sản xuất và chế biến các hợp chất thiên nhiên. Nó không chỉ là công nghệ lõi, mà còn là nguyên tắc để xây dựng cả một ngành công nghiệp dược liệu tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam”, ông Năng chia sẻ.

Ông cũng được Cục Sở hữu Trí tuệ cấp bằng sáng chế lò đốt rác thải y tế, với ưu thế là không hình thành dioxin và furan trong khí thải lò đốt, khi hạ nhiệt độ đột ngột từ hơn 1.000 độ xuống dưới 100 độ chỉ trong 1/3 giây.

Một nữ doanh nhân từng ngỏ ý đặt hàng hàng loạt lò đốt rác thải, với điều kiện ông phải nâng giá lên nhiều lần trong hồ sơ đấu thầu thiết bị y tế. Ông từ chối mà không cần suy nghĩ. “Là người làm nghiên cứu, tôi không thể chấp nhận chuyện đó. Nó vừa trái lương tâm, vừa vi phạm pháp luật”. Một lời mời khác đến từ Đài Loan (Trung Quốc), sẵn sàng mua lại sáng chế với giá cao. Nhưng ông chọn giữ công nghệ lại cho Việt Nam.

Cô đơn nhưng không cô độc trên con đường nghiên cứu khoa học

Nghị quyết 57 hướng tới giải phóng tư duy, tháo gỡ rào cản, nhìn nhận năng lực sáng tạo dựa trên kết quả chứ không chỉ dựa vào hình thức bằng cấp hay cơ cấu tổ chức.

Ông Trịnh Đình Năng có niềm đam mê cháy bỏng với khoa học công nghệ, luôn cầu tiến và học hỏi không ngừng

Ông Trịnh Đình Năng có niềm đam mê cháy bỏng với khoa học công nghệ, luôn cầu tiến và học hỏi không ngừng

Là người làm khoa học từ thực tiễn, tôi rất trân trọng tinh thần của Nghị quyết 57. Nghị quyết tháo gỡ mọi rào cản, nhìn nhận đúng vai trò của những nghiên cứu ứng dụng có khả năng lớn trong thực tế, đóng góp một cách hiệu quả vào phát triển kinh tế đất nước.

Với tôi, đó là một cú hích tinh thần. Tôi thêm niềm tin rằng con đường mình đang đi, dù nhiều khi đơn độc, vẫn được nhìn thấy và trân trọng. Quan trọng hơn, nó mở ra cơ hội để những ý tưởng xuất phát từ đời sống được tiếp cận chính sách, kết nối với hệ thống khoa học của Nhà nước”, nhà sáng chế Trịnh Đình Năng chia sẻ.

Ông từng dẫn chuyện nhiều nhà khoa học nổi tiếng thế giới nhưng không có bằng đại học để khẳng định tư duy khoa học là thứ quan trọng hơn tấm bằng. Tinh thần ấy theo ông trong suốt hành trình nghiên cứu lặng thầm. Một mình chế tạo thiết bị, tự dựng phòng thí nghiệm, miệt mài thử nghiệm từng chi tiết. Ông kiên trì ngay cả khi cô đơn nhất.

Nhiều tháng ngày ông chỉ có máy móc làm bạn. Và đến nay, khi đã ngoài 60 tuổi, ông vẫn duy trì nếp sinh hoạt khác thường: đi ngủ từ 8 giờ tối, thức dậy lúc 1 giờ sáng để làm việc. Khoảnh khắc đó, ông gọi là “vũ trụ đang ngủ” – khoảng thời gian tĩnh lặng tuyệt đối, nơi ông có thể trò chuyện với ý tưởng, lắng nghe tín hiệu từ những vật liệu mới được tạo ra, cũng như từ những giả thuyết hoàn toàn mới mẻ.

Theo GS.TS Nguyễn Văn Nội – Giám đốc Phòng thí nghiệm trọng điểm vật liệu tiên tiến ứng dụng trong phát triển xanh (Trường Đại học Quốc gia Hà Nội), thành công của nhà sáng chế Trịnh Đình Năng đến từ niềm đam mê cháy bỏng với khoa học công nghệ, thái độ cầu tiến và học hỏi không ngừng.

Dù không được đào tạo bài bản, ông vẫn tự học, tự đọc rất nhiều tài liệu chuyên môn liên quan đến các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể của ông. Nhà sáng chế Trịnh Đình Năng luôn hợp tác chặt chẽ với các nhà khoa học đầu ngành, khảo sát chất lượng sản phẩm thông qua hệ thống các phòng thí nghiệm hiện đại quốc gia và quốc tế. Đó là sự nghiêm túc, cầu tiến, không phải ‘sáng chế theo cảm hứng’ mà tuân theo những quy trình công nghệ được xây dựng một cách bài bản, chặt chẽ và khoa học”, GS Nội nhận định.

Cũng theo GS Nội, điều đặc biệt ở nhà sáng chế Trịnh Đình Năng là tư duy nghiên cứu khoa học được kết hợp chặt chẽ với tư duy doanh nghiệp. Rất đam mê công nghệ, đam mê tìm tòi nghiên cứu, ông cho rằng, mọi sản phẩm được làm ra đều để đáp ứng nhu cầu của thị trường, của đời sống chứ không phải chỉ để thỏa mãn đam mê. Do đó, kết quả nghiên cứu phải được biến thành hàng hóa, và chính điều này tạo cơ sở vật chất, tài chính cho những sáng chế tiếp theo của ông.