Cổ nhân có nói “Nhân tài là nguyên khí của nhà nước, mà khoa cử là thản đồ của học trò”. Khoa cử đặt ra cốt để kén chọn nhân tài cho nhà nước. Khoa cử nung đúc cái chí của con người ta cho được cầu tiến.
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả tác phẩm “Lược khảo về khoa cử Việt Nam: Từ khởi thủy đến khoa Mậu Ngọ” của tác giả Trần Văn Giáp, do Nguyễn Phúc An khảo chú. Tập sách mang đến cho độc giả cái nhìn về khoa cử thời phong kiến tại Việt Nam và cách tuyển chọn nhân tài phục vụ quốc gia thời xưa.
Cuốn sách dày 124 trang, gồm 15 bài viết tiêu biểu như lịch sử khoa cử, phép thi văn, phép thi võ, cách xếp đặt trong trường thi, các quan trường và thí sinh, quan niệm về khoa cử, mấy bài văn cổ nói về khoa cử… Tập sách được trích ở Khai Trí Tiến Đức tập san (Hà Nội năm 1941).

Tác phẩm “Lược khảo về khoa cử Việt Nam: Từ khởi thủy đến khoa Mậu Ngọ”
Nước ta tham gia vào trường khoa cử khi nào?
Vào đời xưa, phàm những người muốn tiến thân, đều phải nỗ lực học hành đặng bước vào đường khoa cử, tiến tới ngưỡng cửa quan quyền. Do đó, đối với nước nhà thì khoa cử là phép lựa nhân tài, đối với kẻ sĩ thì là con đường tiến thân vinh hoa, rộng mở.Khoa cử là vấn đề hệ trọng trong tổ chức xã hội thời quân chủ phong kiến ở nước ta nói riêng và cả khu vực Đông Á nói chung, bao gồm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… những quốc gia nằm trong vành đai chữ Hán đều noi theo lối khoa cử để tuyển lựa hiền tài hầu cho quốc gia trưng dụng.
Nước ta tham gia vào trường khoa cử từ rất sớm kể từ đời nhà Tần, đời nhà Hán ở Trung Quốc, người Nam ta đã sớm dấn thân vào con đường khoa hoạn (thi đỗ và làm quan) nhưng thời kỳ đó chúng ta chưa thực được độc lập nên còn phụ thuộc Trung Quốc bấy giờ, nền khoa cử thực sự chưa có hẳn hoi.
Xét về lịch sử khoa cử của Việt Nam, nước ta mở khoa thi đầu tiên vào đời nhà Lý, năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tông (1075) gọi tên là khoa Minh kinh bác học, đó chính là khởi đầu cho khoa cử ban văn của nước ta, để các đời sau này noi theo mà làm nên một nền khoa cử hùng hậu trải ngót ngàn năm. Tác giả sẽ đưa người đọc đến với không khí trường thi ngày xưa, cách mà nước ta đã tổ chức, sắp đặt, định lệ về thi cử cho dân ta thông qua khoa cử từ khởi thủy, cho đến năm 1918 cánh cửa khoa cử mới thực sự khép lại.Kỳ thi phổ biến lúc bấy giờ có thể kể đến là kỳ Thi Hương, tất cả những sĩ tử ở các châu, huyện trong một tỉnh hay nhiều tỉnh cùng thi ở một tỉnh lị nào đó để kén chọn lấy người học giỏi, rồi lại cùng thi ở kinh đô với những người học giỏi ở các tỉnh khác. Người trúng tuyển thi Hương thường gọi theo thời là cống tử, cử nhân.
Nói cho đầy đủ thì nước ta có thi văn và thi võ. Khoa thi văn thứ nhất nước ta có từ năm Thái Ninh (Ất Mão, 1075) đời vua Lý Nhân Tông, gọi tên là khoa Minh kinh bác học. Với thi võ có trễ hơn, theo như cụ Lê Quý Đôn thì bảo trước đời nhà Lê nước ta không có thi võ. Nhưng khảo lại trong các sử sách, năm Chính Long thứ 8 (Bảo Ứng, 1170) đời Lý Anh Tông, vua thường ra tập bắn trường bắn ở phía Nam kinh thành, khi tập có bắt các quan võ thường ngày phải đua nhau tập học phép công thủ, lối bày trận. Đến đời vua Trần Thái Tông có chọn những người có dũng lực mà hiểu võ nghệ cho làm Thượng đô Túc vệ, thì ta có thể cho rằng thi võ của nước ta khởi thủy từ đó. Kỳ thực, đến đời Lê Thái Tổ mới đặt thể lệ thi võ, tới đời Bảo Thái (1720-1728) sau Lê Trung Hưng mới đặt hẳn khoa thi.
XEM THÊM>>Sách hay phát hành T7/2025: Ngàn năm trà Việt
Khoa cử là để tìm ra hiền tài phục vụ cho đất nước
NNC Nguyễn Phúc An chia sẻ: “Theo biến động của lịch sử và thời cuộc, đầu thế kỷ 20, nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, thể chế hành chánh, chính trị, quân sự, xã hội hết thảy đều như bị lật tung lên để cơ cấu lại. Thiết chế quân chủ bị phá vỡ, những gì thuộc về quá khứ lỗi thời dần bị thay thế. Trong một thời đại mọi thứ đều phải cải cách, cải lương, thì khoa cử với nội hàm thuộc về cơ chế cũ cũng không ngoại lệ, nó đã bị hủy bỏ để thay thế bằng một nền học mới (tân học). Về sau, chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm. Thế hệ sau biết chữ Hán càng ít dần, hiếm hoi, xa lạ với chữ viết của cha ông ta từng sử dụng hàng ngàn năm. Những tư liệu Hán Văn, chữ Nôm xưa giờ ít người đọc và hiểu được. Dần dà, những văn hóa, văn hiến Việt Nam dần bị rơi vào tình thế đứt gãy tư liệu lịch sử, dễ rơi vào lãng quên… khi thể chế cũ sụp đổ”.
Mỗi thời đại luôn gắn liền với lịch sử và văn hóa của đất nước, lịch sử của nước ta là dựng nước và bảo vệ đất nước khỏi ngoại xâm trường kỳ nên khó tránh khỏi những mất mát về tư liệu và những thay đổi. Điều quan trọng nhất là mỗi người dân luôn giữ lấy cái tinh thần vững chãi của dân tộc, yêu chuộng hòa bình, được sống trong một đất nước độc lập tự do, luôn trân trọng những giá trị cha ông ta đã truyền lại cho chúng ta.
Ở thời đại nào cũng thế, con người học tập và rèn giũa đạo đức để cùng chung tay nâng cao chất lượng xã hội, còn khoa cử là để tìm ra hiền tài phục vụ cho đất nước, đưa quốc gia phát triển đi lên thật nhanh và vững chãi. Ngày nay, nền giáo dục hiện đại ở trong một tâm thế mới, “khoa cử” có thể hiểu rộng ra là con người tham gia những chương trình học và học nâng cao để tự trang bị nâng cấp kiến thức không chỉ phục vụ trong công việc Nhà nước mà còn đáp ứng nhiều lĩnh vực khác nhau trong xã hội hiện đại.
Vài nét về tác giả
Trần Văn Giáp (1898 – 1973) tự Thúc Ngọc
Một số tác phẩm viết, dịch: Lược khảo về khoa cử Việt Nam (1941); Lược truyện các tác gia Việt Nam (1962); Phong thổ Hà Bắc thời Lê (1971); Tìm hiểu kho sách Hán Nôm (I-II); Ngọc Kiều Lê (1976)…
Nguyễn Phúc An (khảo chú)
Sinh năm 1984, quê quán An Giang.
Một số tác phẩm viết và dịch: Đờn ca tài tử – khảo và luận; Văn học trung đại Việt Nam nhìn từ thể loại tiểu thuyết truyền kỳ chữ Hán; Chinh chiến và từ bỏ: Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đời Minh; Tuồng hát cải lương – khảo và luận (Giải Khuyến khích Giải thưởng Sách Quốc gia lần VII năm 2024); Về quyển Sự tích và nghệ thuật Hát bộ của Đoàn Nồng; Việt Nam sử luận – Góc nhìn đa chiều…